TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT SỐ 4 NĂM 2006
TS. NGUYỄN VĂN DŨNG – Học Viện Tư Pháp
Chế định “đại diện”
được quy định tại nhiều điều luật, tương đối đầy đủ và chi tiết trong Bộ
luật dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự. Theo những quy định này, trong
quan hệ dân sự và tố tụng dân sự có “người đại diện theo pháp luật” và
“người đại diện theo ủy quyền”- được gọi chung là người đại diện hoặc
người đại diện hợp pháp. Quyền và nghĩa vụ của người “đại diện theo pháp
luật” và “đại diện theo ủy quyền” không phải trong mọi trường hợp đều
như nhau và giống nhau. Khi đặt trong tổng thể chung, có những quy định
pháp luật gây nhầm lẫn hoặc gây tranh luận về mặt lý luận cũng như trong
thực tiễn áp dụng. Quy định: “người đại diện của đương sự” tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự là một quy định như vậy.
Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “Đương sự, người đại diện của đương sự,
cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm để
yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc
thẩm.” Theo quy định này, có 3 đối tượng được quyền kháng cáo bản án,
quyết định sơ thẩm bao gồm, Đương sự; Người đại diện của đương sự; Cơ quan, tổ chức khởi kiện có
quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án. Với hai đối tượng: đương
sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo là chính xác,
đúng quy định pháp luật và không cần bàn cãi. Bài viết này bàn về quy
định người đại diện của đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án,
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của toà án…
1. Những quy định của pháp luật về đại diện và về ủy quyền
a. Quy định pháp luật về đại diện.
Điều 139 Chương VII Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“ Điều 139. Đại diện.
1. Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người
đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện.
2…..
3. Quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền.”.
Theo quy định này, người đại diện luôn nhân danh (người khác) và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
Tiếp đó các điều 140; 141; 142 và 143 quy định cụ
thể về đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền. Theo đó người
đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (Điều 140). Cụ thể, người đại
diện theo pháp luật bao gồm: Cha mẹ đối với con chưa thành niên; Người
giám hộ đối với người được giám hộ; Người được Toà án chỉ định đối với
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người đứng đầu pháp nhân theo
quy định của Điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; Tổ trưởng tổ hợp tác
đối với tổ hợp tác và những người khác theo quy định của pháp luật (Điều
141). Người đại diện theo uỷ quyền là người đại diện được xác lập theo
sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được đại diện (Điều 142)…và
việc đại diện theo uỷ quyền phải theo đúng quy định pháp luật về uỷ
quyền.
Các điều từ Điều 73 đến Điều 78 Bộ luật Tố tụng Dân
sự cũng quy định chi tiết, cụ thể về đại diện. Theo những quy định này,
người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp
luật và người đại diện theo uỷ quyền; người đại diện theo pháp luật và
người đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người
đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng
dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện và trường hợp không
được uỷ quyền theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, Điều 74 quy định:
“Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự mà mình đại diện. Người đại diện theo uỷ
quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
theo nội dung văn bản uỷ quyền”
b. Quy định pháp luật về ủy quyền.
Hợp đồng uỷ quyền được quy định tại Mục 12 Chương XVIII Phần thứ ba Bộ luật dân sự.
“ Điều 581. Hợp đồng uỷ quyền.
Hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ
quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc
pháp luật có quy định.”.
Với những quy định của pháp luật về đại diện thì dù
có được uỷ quyền và trong phạm vi uỷ quyền nhưng người được uỷ quyền
phải nhân danh người uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của chính
người uỷ quyền.
2. Về quy định “ quyền người đại diện đương sự”tại Điều 243 Bộ luật Tố tụng dân sự
Theo quy định pháp luật, khi một người có quyền thì
họ có thể tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác thay mình thực hiện quyền
đó. Ví dụ quyền khởi kiện (Điều 4, Điều 161); Quyền tự định đoạt (Điều
5); Quyền bảo vệ (Điều 9)…và quyền kháng cáo. Như vậy, quy định tại Điều
243 Bộ luật tố tụng dân sự “ …người đại diện đương sự,…
có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ
giải quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu toà án cấp trên trực
tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”, được hiểu không chỉ đương
sự, mà cả người đại diện (đại diện theo pháp luật và đại diện được uỷ
quyền) của đương sự được quyền tự mình hoặc nhờ người khác làm đơn kháng
cáo bản án, quyết định của tòa án và thực tế đã gặp những trường hợp
như vậy.
Thực tiễn xét xử tuy chưa gặp trường hợp người đại
diện (theo uỷ quyền) uỷ quyền cho người khác viết đơn kháng cáo, nhưng
đã có trường hợp luật sư tham gia tố tụng với tư cách người đại diện
(theo uỷ quyền) đã nhân danh luật sư, nhân danh cá nhân làm đơn kháng
cáo bản án của toà án. Cụ thể có đơn kháng cáo đã viết:
“ …
Đơn kháng cáo
Kính gửi: Tòa án nhân dân…..
Tôi: Nguyễn M.D, Luật sư thuộc Đoàn luật sư Hà Nội,
tôi làm đơn này kháng cáo bản án sơ thẩm số…/DSST ngày …tháng …năm 2005
của Tòa án nhân dân…
…
Hà Nội, ngày… tháng….năm 2005.
Người kháng cáo
(ký tên)
Luật sư. Nguyễn M.D”.
Trao đổi về đơn kháng cáo này có hai quan điểm được nêu ra.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, đơn kháng cáo của
Luật sư nhân danh cá nhân là đúng theo quy định tại điều 243 Bộ luật tố
tụng dân sự vì luật sư là người đại diện cho đương sự và có quyền kháng cáo.
Khi một người có quyền thì họ được nhân danh cá nhân mình làm đơn kháng
cáo. Trong trường hợp này, Luật sư đã làm đúng và trong phạm vi pháp
luật cho phép.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng, vì Luật sư
tham gia tố tụng với tư cách người đại diện (theo uỷ quyền) cho đương sự
nên không được nhân danh luật sư, nhân danh cá nhân làm đơn kháng cáo
bản án của toà án, mà phải nhân danh đương sự (người ủy quyền) kháng cáo
bản án.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai, vì khi vận dụng
một quy định nào đó cần đặt chúng trong một tổng thể chung và trong từng
trường hợp cụ thể. Khi tham gia một quan hệ pháp luật với tư cách người
đại diện theo ủy quyền thì phải tuân thủ những quy định chung về đại
diện và về ủy quyền. Quy định người đại diện cho đương sự có quyền kháng
cáo không thể được áp dụng trong mọi trường hợp, mà chỉ đúng khi áp
dụng trong trường hợp người đại diện theo pháp luật.
Ở đây, Luật sư chỉ là người được uỷ quyền, nên chỉ được nhân danh bên ủy quyền, nhân đương sự mà mình đaị diện làm đơn kháng cáo. Việc Luật sư nhân danh mình làm đơn kháng cáo là không chính xác, không đúng.
Nhưng tại sao lại có sự áp dụng không chính xác này, tại quy định tại Điều 243 Bộ luật Tố tụng dân sự hay tại người áp dụng?
Thứ nhất, về phía người áp dụng, do chỉ đặt
quy định của Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự độc lập và áp dụng quy định
đó một cách riêng biệt việc áp dụng đã trở nên phiến diện và mâu thuẫn
về mặt lý luận. Hệ quả là người đại diện theo ủy quyền lại không nhân
danh người ủy quyền mà nhân danh chính mình thực hiện hành vi tố tụng
trước tòa án. Nếu chỉ viện dẫn riêng một điều luật (Điều 243 Bộ luật tố
tụng dân sự) trong trường hợp này thì luật sư không sai vì quy định
người đại diện có quyền kháng cáo tại Điều 243 nói trên cho phép được
hiểu quyền đó dành cho tất cả những người đại diện.
Thứ hai, về quy định của điều luật, Điều 243
Bộ luật tố tụng dân sự quy định người đại diện của đương sự có quyền
kháng cáo dẫn đến có người hiểu quyền đó dành cho tất cả những người đại
diện, nhưng thực tế quyền này không quy định cho tất cả những người đại
diện mà chỉ đối với người đại diện theo pháp luật, đặc biệt cho người
đại diện quy định tại các khỏan 4; 5; 6 và 7 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân
sự. Nếu đúng như vậy thì quy định chưa chuẩn của điều luật đã gây sự
hiểu lầm và tạo nên sự áp dụng không thống nhất và không chính xác trong
thực tiễn.
Theo chúng tôi, Bộ luật tố tụng dân sự đã không phân
biệt rõ mà đánh đồng việc sử dụng các khái niệm “người đại diện hợp
pháp” với “người đại diện theo pháp luật”. Đáng tiếc, nội dung này cũng
được tìm thấy trong hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần
thứ hai “Thủ tục giải quyết các vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của Bộ
luật tố tụng dân sự (Tiểu mục 1.3. Mục 1.Về điều 161 của BLTTDS).
Như đã đề cập đến ở phần trên, chế định “người đại
diện- người đại diện hợp pháp” có người đại diện theo pháp luật và người
đại diện theo uỷ quyền. Các điều từ Điều 73 đến Điều 78 Bộ luật Tố tụng
Dân sự cũng quy định chính xác những khái niệm này, nhưng đáng tiếc quy
định tại Điều 57, Điều 161 và Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự đã gây ra
những hiểu lầm và áp dụng sai trong thực tiễn. Cũng quy định về người
đại diện tương tự như quy định tại các khỏan 4; 5; 6 và 7 Điều 57 Bộ
luật tố tụng dân sự, nhưng các Điều 20; 21; 22 và 23 Bộ luật dân sự năm
2005 đã sử dụng khái niệm “người đại diện theo pháp luật” mà không sử
dụng “người đại diện hợp pháp”. Việc sử dụng khái niệm người đại diện
theo pháp luật trong các điều luật nêu trên của Bộ luật dân sự là chính
xác và chuẩn về sử dụng thuật ngữ pháp lý.
3. Kiến nghị
Để khắc phục những bất cập trong hoạt động tố tụng, theo tôi, những người liên quan cần có những lưu ý sau.
Đối với những người đại diện theo uỷ quyền, khi sử
dụng quyền kháng cáo, không nên cho rằng quyền kháng cáo bản án, quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm để
yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm
là quyền trực tiếp của mình, mà quyền đó là quyền được đương sự ủy
quyền. Mọi hành vi tố tụng của luật sư đều phải nhân danh người ủy quyền
cho mình, nhân danh đương sự. Cần đặt quy định này trong tổng thể
chung, trong các điều luật có liên quan.
Đối với Tòa án, các Thẩm phán, khi nhận được đơn
kháng cáo như nêu trên, cần áp dụng quy định chung của pháp luật tại các
Điều 244 và 246 Bộ luật tố tụng dân sự để xác định tính không hợp lệ
của đơn kháng cáo và không chấp nhận đơn vì người kháng cáo không đúng
thẩm quyền.
Tuy nhiên, để tránh những tranh luận không cần thiết,
đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, cần có sự quan tâm xem xét khi
có sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự. Cụ thể cụm từ “người đại
diện hợp pháp” cần thay bằng “người đại diện theo pháp luật” quy định
tại các khoản 4; 5; 6 và 7 Điều 57; Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự ”;
Cụm từ “người đại diện của đương sự” tại Điều 243 cần thay bằng cụm từ
“người đại diện hợp pháp của đương sự”.
0 nhận xét