TS. PHÙNG TRUNG TẬP – Khoa Luật dân sự – Đại học Luật Hà Nội
Kiện đòi lại tài sản là
một trong các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo qui định của pháp
luật. Theo qui định tại Điều 255 BLDS, thì: “Chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải
trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Quyền sở hữu tài sản là quyền dân sự của
chủ sở hữu, được pháp luật bảo hộ. Trong trường hợp tài sản của chủ sở
hữu đang do người khác chiếm hữu không dựa trên sự định đoạt ý chí của
chủ sở hữu, thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người đang thực tế chiếm hữu
tài sản có nghĩa vụ trả lại tài sản cho mình. Ngoài chủ sở hữu tài sản,
người có quyền chiếm hữu hợp pháp tài sản của chủ sở hữu cũng có quyền
khởi kiện để yêu cầu Toà án buộc người đang chiếm hữu tái sản có nghĩa
vụ trả lại tài sản. Người chiếm hữu hợp pháp tài sản là người được chủ
sở hữu chuyển giao tài sản thông qua một giao dịch dân sư (cho thuê,
mượn, gửi giữ, cầm cố…). Người chiếm hữu hợp pháp còn là người đang quản
lý tài sản chung (di sản thừa kế chưa chia, quản lý di sản dùng vào
việc thờ cúng). Như vậy, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có
quyền kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu bất hợp pháp. Quan hệ về
quyền sở hữu tài sản là quan hệ pháp luật dân sự, do vậy chủ sở hữu tự
mình thể hiện ý chí trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Tuy nhiên, trong quan hệ xã hội và pháp luật, tài sản của chủ sở hữu
trong những hoàn cảnh cụ thể đã dời khỏi chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu
hợp pháp ngoài ý chí, do có hành vi chiếm đoạt trái pháp luật tài sản
đó. Bộ luật dân sự qui định chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có
quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu
hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, nếu tài
sản đó chưa được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu ở người đang chiếm
hữu (Điều 256).
Tài sản theo tính chất được phân thành
động sản và bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu và động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu, theo đó việc chủ sở hữu có quyền kiện
đòi lại tài sản hay không có quyền kiện đòi lại tài sản (kiện vật
quyền). Tuy nhiên, theo qui định tại Điều 258 BLDS, quyền của chủ sở hữu
kiện đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản không
được đáp ứng, nếu người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được các tài sản
đó thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau
đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị
huỷ, sửa. Qui định tại Điều 258, không những nhằm bảo vệ lợi ích của chủ
sở hữu tài sản, mà trong những điều kiện nhất định thì quyền của người
đang thực tế chiếm hữu tài sản vẫn được bảo vệ theo căn cứ xác lập quyền
sở hữu hợp pháp của người đó đối với động sản phải đăng ký quyền sở hữu
hoặc bất động sản.
Trong bài tham luận này, chúng tôi bàn về
việc kiện đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu
từ người chiếm hữu ngay tình.
Theo qui định tại Điều 257 BLDS: “Chủ
sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có
được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có
quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có
đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy
cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở
hữu”.
Theo qui định trên, quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu đối với động sản không phải đăng ký quyền sở hữu với điều kiện:
- Người chiếm hữu động sản đó được xác định là chiếm hữu ngay tình;
- Người chiếm hữu ngay tình tài sản đó thông qua một giao dịch không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản.
Theo những qui định trên, đã loại trừ
những trường hợp cho dù một người chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu thông
qua một giao dịch có đền bù, nhưng hành vi của người chiếm hữu tài sản
đó được xác định là hành vi không ngay tình khi chiếm hữu, thì người này
có trách nhiệm trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Qui định này nhằm bảo vệ
lợi ích tuyệt đối của chủ sở hữu, đồng thời nhằm ngăn chặn các hành vi
lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu thông qua giao dịch.
Như vậy, quyền đòi lại tài sản của chủ sở
hữu động sản không phải đăng ký quyền sở hữu phụ thuộc vào ý chí và
hành vi của người đang chiếm hữu được xác định là ngay tình, nhưng người
đang chiếm hữu đó có được tài sản do người không có quyền chuyển giao
theo hợp đồng không có đền bù. Người không có quyền định đoạt tài sản
của chủ sở hữu thường là người thuê, mượn, nhận gửi giữ, người vận
chuyển, người nhận cầm cố, người nhận đặt cọc tài sản của chủ sở hữu
động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, không được sự cho phép của chủ
sở hữu nhưng người chiếm hữu vẫn chuyển giao tài sản thông qua hợp đồng
không có đền bù cho người thứ ba như tặng cho tài sản, thì chủ sở hữu
có quyền đòi lại tài sản. Qui định này nhằm ngăn chặn hành vi lạm dụng
lòng tin để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu. Hơn nữa, người đang chiếm
hữu tài sản được chuyển giao cho dù là chiếm hữu ngay tình, vẫn có
nghĩa vụ phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu và lợi ích của người này
cũng không bị xâm phạm. Ngược lại, nếu người đang chiếm hữu tài sản của
chủ sở hữu được xác định là chiếm hữu không ngay tình, thì cho dù hợp
đồng chuyển giao tài sản đó là hợp đồng có đền bù, người chiếm hữu không
ngay tình vẫn có nghĩa vụ trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu.
Nhằm ngăn chặn hành vi lấy cắp tài sản
của chủ sở hữu, và tài sản đó do người lấy cắp chuyển giao cho người thứ
ba thông qua hợp đồng có đền bù, thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài
sản ở người đang chiếm hữu, cho dù hành vi chiếm hữu của người này là
ngay tình hoặc không ngay tình.
Quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu được đáp ứng kể cả trong trường hợp
tài sản này bị mất và trong những trường hợp khác, loại động sản này
dời khỏi chủ sở hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Quyền kiện đòi lại động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu, chỉ được đáp ứng trong trường hợp tài sản đó vẫn
còn. Như vậy, nếu động sản là đối tượng của vụ kiện không còn tồn tại
(do bị mất, bị tiêu huỷ…), thì mục đích kiện đòi lại động sản đó của chủ
sở hữu hoặc của người chiếm hữu hợp pháp không được đáp ứng. Trong
trường hợp này, quyền của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp chỉ
được bảo vệ theo phương thức kiện trái quyền.
Kiện đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu, theo qui định tại Điều 257 BLDS, là nhằm bảo vệ quyền của
chủ sở hữu trong những trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, nội dung Điều 257
BLDS đã làm phức tạp hoá những vấn đề rất đơn giản do qui định: “động sản không phải đăng ký quyền sở hữu”.
Tài sản của chủ sở hữu cho dù có đăng ký hoặc không đăng ký cũng không
vì thế mà làm tăng lên hoặc giảm sút quyền của chủ sở hữu tài sản đó.
Thủ tục đăng ký động sản không có sự liên quan nào đến quyền kiện đòi
lại tài sản của chủ sở hữu trong trường hợp tài sản của chủ sở hữu đang
bị người khác chiếm hữu trái pháp luật, trái ý chí của chủ sở hữu. Về
bản chất, việc đăng ký động sản chỉ có ý nghĩa nhằm ngăn chặn hành vi
xâm phạm đến tài sản đó nếu có; để chủ sở hữu có căn cứ xác định tài sản
đó là của mình. Việc đăng ký động sản hay không đăng ký động sản của
chủ sở hữu không ảnh hưởng đến quyền của chủ sở hữu tài sản. Vì chủ sở
hữu tài sản thực hiện quyền sở hữu của mình theo qui định của pháp luật,
không phụ thuộc vào tài sản đó có giá trị lớn hay nhỏ, là động sản hay
bất động sản, tài sản đó có phải đăng ký hay không. Bất luận, khi tài
sản của chủ sở hữu đang bị người khác chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở
hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp, thì người đó có quyền kiện hoặc không
kiện để yêu cầu người đang thực tế chiếm hữu tài sản phải trả lại tài
sản đó cho mình, không phụ thuộc vào việc tài sản đó có đăng ký hay
không.
Theo chúng tôi, Điều 257 nên sửa đổi bằng việc loại bỏ những chữ thừa, mà chỉ cần qui định: Quyền đòi lại động sản từ người chiếm hữu ngay tình,
là đủ. Sửa đổi theo phương án này, điều luật vừa có tính khái quát, vừa
hiện đại và cũng nhằm loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, đã gây
cản trở không nhỏ cho chủ sở hữu động sản trong giai đoạn hiện nay.
Qui định tại Điều 257 BLDS, còn hạn chế
là chưa đề cập đến những trường hợp động sản không phải đăng ký của chủ
sở hữu, do người chiếm hữu ngay tình sử dụng, khai thác đã thu được
những lơi ích nhất định trong thời gian chiếm hữu, trong trường hợp chủ
sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được đòi lại vật, thì người chiếm
hữu ngay tình có nghĩa vụ hoàn trả những lợi ích vật chất đó cho chủ sở
hữu không? Theo nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản được hưởng những lợi ích
vật chất từ tài sản. Vì trong thời gian tài sản của chủ sở hữu do người
khác chiếm hữu, nhưng vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu động sản đó.
Một trường hợp khác, lợi ích của người thuê động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu đã không được đáp ứng, do động sản đó lại đang do người
khác chiếm hữu, khai thác thu lợi nhuận, mà người thuê tài sản đó vẫn có
nghĩa vụ trả tiền thuê tài sản cho chủ sở hữu, khoản tiền đó sẽ được
giải quyết như thế nào để bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu và quyền của
người thuê tài sản đó?
Kiện đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình là phương thức kiện dân sự
được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội. Những qui định pháp
luật về vấn đề này đã nhằm bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu hoặc của người
chiếm hữu hợp pháp. Tuy nhiên, những qui định của pháp luật về vấn đề
này vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định như chúng tôi đã chỉ ra trên
đây. Những hạn chế này cần phải được khắc phục khi BLDS của nước ta
được sửa đổi, bổ sung./.
0 nhận xét