Kể từ khi Việt Nam trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì nhu cầu giao lưu thương mại
quốc tế được mở rộng làm xuất hiện ngày càng nhiều các tranh chấp liên quan đến
hợp đồng vận chuyển có yếu tố nước ngoài. Trong những năm gần đây, số vụ việc tranh
chấp được Tòa án Việt Nam thụ lý gia tăng cả về số lượng và ngày càng có tính
chất phức tạp.
1.
Quy
định chung
Liên quan đến việc xác định
thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận
chuyển, pháp luật quy định: “Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển mà
người người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Việt Nam”[1]
thì sẽ thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam trừ trường hợp Điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác. Như vậy, với quy định này thì
các tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển mà có một bên có trụ sở hoặc
chi nhánh thì chỉ có Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết và các bên trong
hợp đồng không được quyền thỏa thuận lựa chọn Tòa án hay Trọng tài giải quyết.
Trong trường hợp, vụ việc được giải quyết tại Tòa án quốc gia khác hoặc trọng
tài thì bản án, quyết định đó không được công nhận và thi hành tại Việt Nam[2].
Đây
là quy định được một số nước trên thế giới áp dụng để xác định thẩm quyền riêng
biệt của Tòa án quốc gia mình. Ví dụ theo khoản 1 Điều 403 Bộ luật tố tụng dân
sự Liên bang Nga thì “Những vụ việc sau đây thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt
của Tòa án Liên bang Nga: Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển, nếu
người vận chuyển có địa chỉ trên lãnh thổ Liên bang Nga”.
Khác
với pháp luật Việt Nam, pháp luật Liên minh Châu Âu không xem đây là trường hợp
thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án quốc gia mà tùy theo tính chất của từng
vụ việc cụ thể liên quan đến hợp đồng vận chuyển để xác định thẩm quyền dựa
theo nguyên tắc chung nơi cư trú của bị đơn (defendant’s
domicile), thẩm quyền đặc
biệt (special jurisdiction) hoặc
thẩm quyền theo sự lựa chọn của các bên (choice of jurisdiction) và sẽ do Toà án các nước thành viên áp dụng dựa trên các quy phạm pháp luật tố tụng quốc gia để xác định Toà án có thẩm quyền[3].
2.
Một
số kiến nghị
Mục
đích ban đầu mà nhà làm luật quy định đây là trường hợp thuộc thẩm quyền riêng
biệt của Tòa án Việt Nam là để hạn chế thiệt hại cho các chủ tàu là người Việt
Nam. Qua đó thúc đẩy sự phát triển của ngành vận tải bằng đường biển, đường
hàng không Việt Nam và các phương tiện vận chuyển khác. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam đã dần lớn mạnh, trong
quan hệ thương mại quốc tế có thể là người vận chuyển, có thể là chủ hàng. Cho
nên, thiết nghĩ trong tình hình hiện nay cần thay đổi, không nên quy định đây
là trường hợp thuộc thẩm quyền riêng biệt. Trong tranh chấp về hợp đồng vận
chuyển, bị đơn có thể là người vận chuyển hoặc khách hàng, giả sử trường hợp
khách hàng là bị đơn thì việc người vận chuyển khởi kiện khách hàng tại quốc
gia nơi khách hàng cư trú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án thu thập chứng
cứ, cũng như đảm bảo cho việc thi hành án sau này. Do vậy, nên xác định thẩm
quyền chung theo nguyên tắc nơi cư trú của bị đơn là phù hợp hơn. Trên cơ sở
thẩm quyền chung thì giữa các bên trong hợp đồng vận chuyển cũng có thể thỏa
thuận lựa chọn Tòa án quốc gia hoặc Trọng tài có thẩm quyền giải quyết.
Tuy
nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, quy định này nên sửa đổi theo hướng vẫn giữa
nguyên đây là trường hợp thuộc thẩm quyền riêng biệt của Toà án nhưng Toà án
Việt Nam chỉ có thẩm quyền riêng biệt khi “tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận
chuyển được thực hiện ở Việt Nam mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi
nhánh tại Việt Nam”[4].
Việc xác định thẩm quyền của Tòa án quốc gia đối với tranh chấp dân sự
liên quan đến hợp đồng vận chuyển có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết
xung đột thẩm quyền giữa Tòa án các quốc gia. Tuy nhiên, khi xây dựng các căn cứ
xác định thẩm quyền của Tòa án quốc gia, chúng ta cần phải tôn trọng thực hiện
các nguyên tắc cơ bản của Tư pháp quốc tế và tố tụng dân sự quốc tế./.
[3] Nghị định số 44/2001 của Cộng đồng
chung Châu Âu quy định về thẩm quyền của Tòa án và vấn đề công nhận, thi hành
phán quyết dân sự , thương mại của Tòa án (hay còn gọi là Nghị định Brussel
2001)
[4] PGS.TS. Đỗ Văn Đại – PGS.TS. Mai Hồng Quỳ (2010), Tư pháp quốc tế Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, tr. 558.
Nguyễn Gia Nam
Chuyên viên Công ty Luật TNHH Thuận Đức
http://vlr.vn/vn/
Tạp chí Vietnam Logistics Review (VLR)
http://vlr.vn/vn/
Tạp chí Vietnam Logistics Review (VLR)
0 nhận xét